Yêu làng xóm , chân tình rất thật,
Đậm màu chì của đất Trằm hoang
Cát độn, nheo mắt còn vàng,
Càlơ ngủ ở trên hàng Tràm, Keo.
Mội nước mát, theo vào tiềm thức,
Khoan càng sâu, càng rất “ ung thư ”.
Thương nhau biết nói răng chừ?
Còn không Em hởi? hãy như hôm nào!
Dưa môn muối: hai hào, một vắt,
Zdét tát đìa: một cắt, một lon,
Rau ngổ mép giếng vẫn còn,
Trưa hè một bát thơm ngon nhất đời.
Chè Kê thơm - hạt Ngâu rơi,
Cháo tro mè đậu, cuối đời còn trông,
Hến thì Em chớ xào không,
Muốn ngon Anh cứ hãy trồng thêm Thơm.
Tháng 10, tơi úp nóc rơm,
Đến mùa nước bạc, chuột đơm tre tàu,
Nước mưa khỏa trọn hai Bàu,
Cá, cua, chim, chuột làm giàu soon nhôm.
Tháng 5, Nam lấn ngọn Nồm,
Ngoài Ô cá nỗi, bên Cồn nước khô.
Trẻ em nhảy tắm Ồ Ồ,
Người un mộ gió, xí mồ mai sau.
Người ra Biền Chợ xúc hàu,
Người qua cồn Thót, chiều mau mà về.
Tắt trời đỏ cả bờ đê,
Hói Ngang lùng lát, Trâu về tròn vo.
Mệ xin, Anh chẳng dám cho,
Cau, chờ tháng Tám còn lo việc mà?!
Nước sôi hôi khói pha trà,
Uống mau còn gánh má ( mạ) ra bợt Biền.
Xưa kia, đưa đám thì khiêng,
Giờ dùng xe đẩy đỡ phiền vai nhau.
Khu dân: Làng trước, Biển sau
Bây chừ đất hẹp, liền nhau cả rồi.
Lên Cụ Rô, nợ cái Nôi
Lui về Cụ Khóa sửa cồi Cối Xay.
Tiếng đưa kẻo kẹt mãn ngày,
Mệ hò giả gạo còn say lòng người,
Mai vàng Ông uốn ngoài cươi (sân)
Thân như rồng gián, của người Chí Tây.
Từ xưa cho đến mai nầy,
Cái còn cái mất đong đầy tâm cang.
Mấy câu lục bát – nhớ Làng
Cho lòng khỏi phải ngỡ ngàn chốn xưa ./.
Huế , trưa 13/7/2010
Đặng Văn Kường
(*) một tựa thơ của nhà thơ Phan Trung Thành(ở Thế chí Đông) |