“Trách cập gia trưởng” là qui định thường thấy, có nghĩa là trong trường hợp các thành viên gia tộc phạm pháp, bậc gia trưởng đương nhiên phải chịu trách nhiệm. Theo lệ đào binh thời Nguyễn thì không chỉ người lính bỏ ngũ mà chính gia tộc lại bị trừng trị trước tiên, thậm chí phải thanh toán hết các khoản chi phí kèm theo.
Liên đới trách nhiệm chặt chẽ như vậy, gắn liền với cả một hệ quan niệm định chuẩn, có thể nói gia đình và dòng họ thực sự là nền tảng của xã hội mà ở đó, người trên luôn phải làm gương cho con cháu; ngược lại, hậu thế cũng không ngừng trau dồi để làm vẻ vang truyền thống gia tộc. Đó chính là trục quan hệ chủ đạo, chi phối và đảm bảo sự vận hành của đời sống làng xã, thông qua hương ước.
Làng xã miền Trung, khác với miền Bắc, phổ biến thờ Bổn cảnh Thành hoàng bởi người Việt đến đây trong tư thế tiếp quản. Vai trò của các dòng họ khai canh từ đó càng đặc biệt quan trọng, Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ. Có trường hợp, một vị còn được phong Thành hoàng (ngài Thân Đại lang - An Lỗ, Ngô Đại lang - Phù Bài...). Cấm điều Thủ Lễ quy định khắt khe việc bảo vệ khu vực miếu ngài Thủy tổ Phan Công, như là vùng “cấm địa”. Nhiều làng còn trích hẳn ruộng công cho cháu con làm Tự điền để chi phí giỗ chạp. Ở Điều lệ An Gia, làng đặt 7 sào ruộng hương hỏa cho dòng họ Lê khai canh của làng, giao cho dòng họ cày cấy thu hoa lợi để lo việc thờ tự; Họ Phan là dòng họ có công đức lớn nhưng vô tự nên làng trích ra 8 sào tự điền, hằng năm cho mướn lấy tiền sắm sửa lễ hợp tế các vị tiên linh trong họ ngay tại đình làng vào tháng chạp “để biểu thị tấm lòng báo đức đền công”... Đi liền đó là sự tôn kính của hậu thế đối với tiền nhân, thể hiện rõ nét trong tôn ti trật tự xã thôn, đặc biệt là ở tế lễ mà vấn đề thời sự hiện nay là nếu thiếu tính khoa học và tế nhị, dễ dẫn đến nguy cơ tranh giành ngôi thứ, mất đoàn kết v.v...
Trong hương ước, có thể thấy gia tộc là một cấp độ cơ sở, hỗ trợ đắc lực cho hàng xã, cả về hành chính lẫn trong đời sống lễ nghi, từ trách nhiệm thu thuế, đi phu, bảo vệ trật tự trị an cho đến lễ nghi tế tự. Điều dễ dàng nhận ra là chính ở các bản hương ước xưa, luôn có chữ ký xác nhận hoặc điểm chỉ của các tộc trưởng trong làng, ngay sau hàng lý dịch. Hương ước Thanh Thủy Chánh quy định rằng trong việc thuê mướn ruộng đất khẩu phần, yêu cầu phải có “đủ trưởng họ xác nhận”. Hơn thế nữa, làng còn quy định đến kỳ nộp thuế, trưởng họ chịu trách nhiệm đối với các trường hợp con cháu lần lữa gây chậm trễ và do vậy, phải đền bù mọi phí tổn. Trong Sổ chi tiêu ở làng Lễ Khê, cứ cuối mỗi tháng kiểm kê, cũng phải có sự xác nhận của các vị trưởng tộc trong làng.
Việc “lễ” được Khoán lệ Thế Lại Thượng giao quyền điều động trai tráng về cho các dòng họ và “trưởng tộc sai phái không xong, phạt như lệ chức sắc để nghiêm phép làng”.
|
Trò chuyện ở đình làng
|
Gia tộc chính là giềng mối đạo đức trong xã hội, đặc biệt là dưới thời phong kiến. Ở Thế Lại Thượng, “bất hiếu bất mục” là một điều khoản quan trọng của luân thường đạo lý, “các việc ấy cần phải nghiêm chỉnh, ngõ hầu được cha hiền, con thảo, em kính, anh nhường, chồng bảo vợ theo”. Trong đời sống gia đình, lệ làng quy định rằng nếu có điều oan khuất mà không tự giải quyết được thì trình rõ lên quan hoặc lý dịch để phân xử. Còn như không trình, sinh lòng xấu làm náo động làng xóm, “nhẹ thì trách phạt trầu rượu, nặng thì bẩm quan trừng trị để giữ gìn luân lí”. Trong việc bồi đắp phong hóa, bậc làm cha làm mẹ, người trên phải chăm lo dạy dỗ con cháu và nếu không làm tròn bổn phận ấy, sẽ bị làng phạt khắt khe. Tội trộm cắp các thứ hoa quả ở ruộng vườn nhà người bị phạt 10 roi nhưng nặng nề hơn, “cha mẹ không biết răn dạy con em, phạt một mâm trầu rượu. Làm vậy để trừ gian, ai nấy phải tuân theo điều ước”.Không chỉ có phạt mà hương ước còn đề cao tinh thần khen thưởng để khuyến thiện, tương tự các việc ban cấp biển ngạch tôn vinh “hiếu tử”, “thuận tôn”... của triều đình phong kiến. Những tấm gương hiếu đễ ở Lễ Khê được làng trích công quỹ trợ cấp nhiều lần để đỡ đần bớt nỗi khốn khó; thậm chí là cấp cả tiền tuất hoặc đóng góp tiền chôn cất nếu chẳng may họ qua đời. Cao cả hơn, sau đó làng còn tổ chức họp tại đình, lấy ra một bài vị ghi danh người ấy đầy đủ, đặt thờ ở hai bên chái tả hữu và “trình lên quan địa phương biểu dương”.v.v...
Thường thì với “Thập nhị tôn phái”, hay “Thất tộc”, các vị thủy tổ ngày trước nhường nhau vị trí khai canh, thành hoàng làng, như trường hợp giai thoại các vị thủy tổ làng Phù Bài, nhưng ngày nay, ngược lại, nhiều nơi lại nảy sinh mâu thuẫn bởi sự tranh giành. Tất cả đều xuất phát từ quan niệm nhìn nhận vấn đề gia tộc mà theo tinh thần của hương ước truyền thống, mối tệ đó sẽ không bao giờ xảy ra.
Đăng Kỳ (Theo NetCoDo) |