Ở thôn Thế Mỹ A, qua nghiên cứu 4 bản gia phả của 4 họ Phan, Lê, Nguyễn, Hồ hiện đang sinh sống ở thôn, đều không ghi rõ nguồn gốc của các ngài thủy tổ từ đâu đến. Thời gian họ đến đây sớm nhất là vào khoảng nữa sau thế kỹ XVIII, cách bây giờ khoảng 150 năm.. Các ngài thủy tổ các họ này chủ yếu sống bằng nghề biển ( đánh bắt hải sản biển ) và họ còn khai thác vùng đất cát vên khu vực định cư đẻ trồng thêm khoai lang sinh sống.
Ngài Thủy tổ họ Nguyễn Văn được tôn vinh là bổn thổ khai canh của làng “ Hiển thượng thái thỉ tổ bổn thổ tiền khai canh trần lưu quận Nguyễn Văn Quý Công đại lang ”. Và cùng các ngài thủy tổ họ Phan, Lê, Hồ đã cùng nhau khai phá và sinh sống trên vùng đất cát ven biển này.
Càng ngày dân số càng đông, nhưng địa bàn cư trú không mở rộng bao nhiêu, do cuộc sống của cư dân vùng biển , nhu cầu đất thổ cư không cần thiết, trái lại vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhất là phải đối phó với nhiều trận bão biển hàng năm. Họ phải sống chen chúc cùng nhau trong một địa bàn chật chội, điều này khá bất lợi trong tình hình quy hoạch dân cư hiện nay.Dọc theo bờ biển cùng với thôn Thế Mỹ A là thôn Thế Mỹ B.
Thôn bao gồm cư dân của 7 họ, trong đó có 3 họ Trần, 3 họ Lê và họ Hồ, hầu hết các bản gia phả đều mới tu lại sau này. Tất cả gia phả đều ghi rõ nguồn gốc của các ngài thủy tổ trước khi di cư vào đây sinh sống, đều xuất phát từ những làng quê ven biển Quảng Trị. Chẳng hạn họ Trần Văn chánh gốc ngài đầu họ khi vào đây quê ở Diêm Hà, họ Trần ( Bình) quê ở xã An Hội, tổng An Lưu, huyện Triệu Phong, họ Trần ( bác Trần Lự tộc trưởng) cũng quê ở Diêm Hà, họ Lê ( bác Lê Thi tộc trưởng) quê ở Lam Hà, Hải Lăng , họ Hồ quê ở Phú Hải, Hải Lăng ... Có một điều xác định nguồn gốc các họ này từ xa xưa là di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An vào theo tiên chúa Nguyễn Hoàng, hoặc thời gian sau đó. Họ là những cư dân vùng biển vào làm ăn sinh sống dọc theo bờ biển Quảng Trị, qua thời gian con cháu ngày càng đông, điều kiện sinh sống ngày càng chật vật. Một số thành viên của các họ đã tách ra để đi tìm nơi sinh sống mới .Trong số đó có một bộ phận đã sinh cơ ở vùng đất Điền Hòa và lập nên hai thôn Thế Mỹ A và Thế Mỹ B ngày nay. Quá trình diễn ra di cứ đó vào khoảng giữa thế kỹ thứ XVIII.Có thể nói rằng , khoảng hơn 4 thế kỹ qua, kể từ ngày đặt chân lên mãnh đất Điền Hòa đầy khó khăn gian khó , nhưng với tính cần cù cùng với tinh thần đoàn kết keo sơn, cùng nhau chung lưng đấu cật, họ đã từng bước cải tạo và xây dựng vùng đất hoang vu thành xóm làng trù phú đông vui. Các hoạt động tinh thần cũng luôn diễn ra sôi nổi, góp phần thúc đẩy quê hương Điền Hòa từng bước phát triển đi lên.Cùng với quá trình phát triển làng xã, địa giới xã Điền Hòa và địa danh liên quân dần dần được xác lập.
Từ khi Đoan quận công vào Thuận Hóa , quá trình mở rộng lãnh thổ đất Đàng Trong ngày một ổn định. Tất cả Đàng Trong chúa Nguyễn chia thành 12 Dinh, Điền Hòa thuộc đất chính dinh. Cuối thế kỹ thứ XVIII, Điền Hòa là xã Thế Chí Đông Tây, thuộc tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.Vào đầu thế kỹ XIX , sau khi đánh bại phong trào nông dân Tây Sơn, vua Gia Long cho sắp xếp lại đơn vị hành chính , trong đó xứ Thuận Hóa đặt làm 3 doanh: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức. Xã Thế Chí Đông Tây thuộc doanh Quảng Đức ( hiện hữu thời gian này phân thành 2 giáp : Giáp Đông và giáp Tây)Đến năm 1821, vua Minh Mạng đã đổi doanh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên, xã Điền Hòa thuộc Thế Chí xã Tây giáp, Phú ốc tổng, Quảng điền huyện, Thừa Thiên phủ.Theo “ Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, thì đến năm 1834 vua Minh Mạng đã cho chia lại các đơn vị hành chính ở phủ Thừa Thiên.
Trong 3 huyện hiện có của Thừa Thiên , vua Minh Mạng chia thành 6 huyện. Một phần đất Quảng Điền từ cổ Bi xuống đến An Lỗ, ngang qua Hiền Lương, Sơn Tùng, lên đến sông Đường Long, Phú Nông, Chánh Lộc, qua sông giáp Thế Chí Tây. Từ đây bên ngoài giáp với địa đầu Quảng Trị và bên trong một giải đất dọc theo bờ biển giáp Thế Chí Đông nối liền với ấp Cương Gián Tây, đặt làm huyện Phong điền. Làng Thế Chí Tây thuộc tổng Vĩnh Xương, một trong năm tổng của huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên. Địa danh đó tồn tại đến khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân làng Thế Chí Tây nói riêng và cả xã Điền Hòa cùng cả nước nói chung bước vào cuộc trường chinh cam go đánh giặc cứu nước.
HẾT.
Đặng Văn Kường.
(Theo Lịch sử xã Điền hòa, NXB Thuận Hóa 2005) |